Nhật Bản được biết đến không chỉ là một nước hùng mạnh về kinh tế vào hàng đầu thế giới mà còn được coi là quốc gia có hệ thống giáo dục rất đa dạng và chất lượng. Hệ thống giáo dục của Nhật Bản được đánh giá đứng thứ 3 thế giới (sau Mỹ và Anh). Còn Việt Nam? Mới đây Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) công bố bản báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2013 – 2014 thực hiện với 148 nước. Kết quả xếp hạng các hạng mục lớn của báo cáo này cho thấy:
Về chất lượng giáo dục phổ thông, Việt Nam đứng thứ 67 bảng xếp hạng, thứ 4 trong các nước ASEAN: sau Singapore (2), Brunei (23), Malaysia (33). Ở hạng mục Giáo dục đại học và đào tạo, Việt Nam đứng thứ 95 trong bảng xếp hạng, thứ 7 trong các nước ASEAN: sauSingapore (2), Malaysia (46), Brunei (55), Thái Lan (66), Indonesia (64), Philippines (67). Vậy những yếu tố, điều kiện gì khiến cho chất lượng giáo dục Việt Nam thấp hơn Nhật Bản? Sau đây là sơ đồ so sánh hệ thống giáo dục Việt Nam và Nhật bản:
4. So sánh về phương pháp giáo dục
Ngày nay, phương pháp giáo dục của nước ta đã có sự đổi mới, học tập từ các quốc gia phát triển trên thế giới, đó là phương pháp dạy học tích cực: dạy và học không qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh, chú trọng rèn luyện phương pháp tự học cho học sinh, tăng cường học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác, kết hợp đánh giá của thầy và tự đánh giá của trò.
Phương pháp giáo dục của nước ta không còn diễn giảng và truyền thụ 1 chiều nữa mà thay vì đó là điều tra, tìm tòi, đặt và giải quyết vấn đề, dạy học tương tác, vấn đáp, hoạt động nhóm, đóng vai, động não,….Các phương pháp mới này giống với các quốc gia tiên tiến khác như Nhật bản “học sinh là trung tâm”, chỉ khác biệt ở chỗ Nhật đầu tư nhiều hơn về giáo dục nên cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục, thư viện, sách, internet của họ cao hơn nước ta nên phương pháp dạy học tích cực của họ có hiệu quả hơn.
5. So sánh giáo viên và học sinh
a. Giáo viên:
Giáo viên Việt Nam ngày càng được đào tạo chu đáo để thích ứng với những thay đổi về chức năng, nhiệm vụ rất đa dạng và phức tạp của mình, nhiệt tình với công cuộc đổi mới giáo dục. Giáo viên vừa phải có kiến thức chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề, biết ứng sử tinh tế, biết sử dụng các công nghệ tin vào dạy học, biết định hướng phát triển của học sinh theo mục tiêu giáo dục nhưng cũng đảm bảo được sự tự do của học sinh trong hoạt động nhận thức.
Điều này cũng giống với việc đào tạo giáo viên ở Nhật nhưng khác biệt 1 chút về việc Nhật bản đào tạo giáo viên không chỉ về kiến thức mà còn đào tạo rất kĩ và đề cao đạo đức nghề nghiệp, giáo viên mỗi tháng đều phải đến tận nhà học sinh, thường là học sinh kém, cá biệt để nói chuyện với phụ huynh hoặc kèm cặp thêm tại nhà cho học sinh ấy mà không lấy thêm học phí, hướng nghiệp cho các học sinh ngay khi còn trên ghế nhà trường, gặp riêng các em để tư vấn con đường tương lai,…
b. Học sinh:
Dưới sự chỉ đạo của giáo viên, học sinh phải dần dần có được những phẩm chất và năng lực thích ứng với phương pháp dạy học tích cực như: giác ngộ mục đích học tập, tự giác trong học tập, có ý thức trách nhiệm về kết quả học tập của mình và kết quả chung của lớp, biết tự học và tranh thủ học ở mọi nơi, mọi lúc, bằng mọi cách, phát triển các loại hình tư duy biện chứng, lô gíc, hình tượng, tư duy kĩ thuật, tư duy kinh tế…
Học sinh của Nhật không chỉ có các phẩm chất và năng lực trên mà còn có tính cạnh tranh và ý thức cộng đồng cao.
6. So sánh đánh giá kết quả học tập
Đánh giá là một khâu quan trọng không thể thiếu được trong quá trình giáo dục. Đánh giá thường nằm ở giai đoạn cuối cùng của một giai đoạn giáo dục và sẽ trở thành khởi điểm của một giai đoạn giáo dục tiếp theo với yêu cầu cao hơn, chất lượng mới hơn trong cả một quá trình giáo dục. Đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập và xử lý thông tin về trình độ, khả năng thực hiện mục tiêu học tập của học sinh về tác động và nguyên nhân của tình hình đó nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên và nhà trường cho bản thân học sinh để học sinh học tập ngày một tiến bộ hơn. Hướng tới yêu cầu kiểm tra đánh giá công bằng, khách quan kết quả học tập của học sinh, bộ công cụ đánh giá sẽ được bổ sung các hình thức đánh giá khác như đưa thêm dạng câu hỏi, bài tập trắc nghiệm; chú ý hơn tới đánh giá cả quá trình lĩnh hội tri thức của học sinh, quan tâm tới mức độ hoạt động tích cực, chủ động của học sinh trong từng tiết học, kể cả ở tiết tiếp thu tri thức mới lẫn tiết thực hành, thí nghiệm. Hệ thống câu hỏi kiểm tra đánh giá cũng cần thể hiện sự phân hóa, đảm bảo 70% câu hỏi bài tập đo được mức độ đạt trình độ chuẩn – mặt bằng về nội dung học vấn dành cho mọi học sinh THPT và 30% còn lại phản ánh mức độ nâng cao, dành cho học sinh có năng lực trí tuệ và thực hành cao hơn
Giáo dục nước ta có nhiều bài kiểm tra hơn so với giáo dục Nhật bản nên đánh giá kết quả học tập của học sinh 2 nước có sự khác nhau. Cách đánh giá của nước ta đã nêu trên, cách đánh giá của Nhật bản cũng tương tự nhưng họ coi trọng thành tích hơn và tính cạnh tranh hơn như việc công bố điểm bài thi và xếp loại cao thấp trên phạm vicả trường nghĩa là họ dán danh sách điểm thi và xếp loại trước sân trường để tất cả học sinh đều biết….Cách chấm bài của họ là đúng hết 100 điểm, còn nước ta là 10 điểm…
– ST –
Trả lời