Nhật Bản là một quốc đảo có diện tích 372.313km2. Năm 2005 Nhật Bản có số dân là 127.760.000 người và GDP/người là 37.800USD, có thủ đô là Tokyo. Nhật bản là một nước phát triển và hiện nay là một siêu cường quốc về kinh tế, là một trong ba trung tâm tài chính lớn của thế giới. Sự thành công của Nhật Bản trong quá trình phát triển là vấn đề được nhiều người quan tâm, bởi vì so với các nước khác Nhật bản bước vào xây dựng đất nước với những điều kiện không thuận lợi: Nghèo tài nguyên, dân số đông, bước vào con đường tư bản chủ nghĩa muộn hơn so với các nước Tây Âu và Hoa Kì, bị bại trận, đất nước bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh thế giới thứ hai. Nhưng chỉ sau mấy thập niên đã phát triển, trở thành nước giàu có. Từ cuối thập 90 trở lại đây nền kinh tế liên tục bị suy giảm bởi nhiều lí do khác nhau ở trong và ngoài nước. Tuy vậy, Nhật Bản vẫn là cường quốc thứ hai trên thế giới và là thành viên của nhóm G8. Quá trình phát triển nền kinh tế của Nhật Bản trãi qua nhiều giai đoạn khác nhau trong đó có giai đoạn phát triển “thần kì”1951-1973 là quan trọng nhất là vì ở giai đoạn này nền kinh tế Nhật Bản đã phát Triển với tốc độ cao, đời sống nhân dân được cải thiện… Dựa vào những lí do trên nên em đã chọn đề tài “giai đoạn phát triển kinh tế “thần kì” 1951—1973 của Nhật Bản”. Để hiểu rõ hơn chúng ta đi vào phần sau.
Muốn tìm hiểu nền kinh tế của một quốc gia, ngoài việc ta phải tìm hiểu điều kiện tự nhiên và các vấn đề xã hội ta còn phải tìm hiểu quá trình phát triển của nền kinh tế của quốc gia đó.
- Sơ lược giai đoạn khôi phục kinh tế sau chiến tranh thế giới thứ hai (1946-1951).
Sau khi chiến tranh kết thúc, nền kinh tế bị lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng: năng lượng thiếu, lạm phát nặng nề, 13,1 triệu người không có việc làm. Đất nước Nhật Bản bị quân đội Mỹ chiếm đóng.
Ngay trong những năm đầu sau chiến tranh, dưới sự kiểm soát của quân đội Mỹ, một số cải cách lớn về kinh tế-xã hội ở Nhật Bản được thực hiện:
-Giải thể các nhóm Zaibatsu nhằm tiêu diệt sức mạnh quân sự của Nhật Bản, xóa bỏ quyền kiểm soát của một số công ty lớn đối với nền kinh tế Nhật Bản. Cải tổ các công ty theo hướng phi tập trung hóa. Biện pháp này tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ trong tất cả các ngành công nghiệp và thúc đẩy cơ chế thị trường hoạt động mạnh, tự do hóa nền kinh tế.
-Cải cách ruộng đất, quy định địa chủ chỉ được giữ lại một phần ruộng đất nhất định, tối đa là 5 ha, sau giảm xuống còn 1 ha. Số còn lại Nhà nước sẽ mua lại và chuyển nhượng cho những nông dân không có ruộng đất.
-Giải quyết vấn đề việc làm, cải thiện điều kiện làm việc, tăng lương cho công nhân. Để thực hiện dân chủ hóa lao động, trong khoảng thời gian từ 1945-1947 có ba đạo luật được ban hành: Luật công đoàn (22/12/1945), Luật tiêu chuẩn lao động (7/4/10947) và Luật điều chỉnh các quan hệ lao động.
Những cải cách trên đây tạo điều kiện cho Nhật Bản khôi phục kinh tế và chuyển hướng từ Nhà nước quân sự sang Nhà nước hướng phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, trước năm 1948, việc khôi phục kinh tế diễn ra chậm chạp và khó khăn. Một mặt vì nền kinh tế bị tàn phá nặng nề, thiếu vốn, nguyên liệu…, mặt khác, người Mỹ đã thực thi một chính sách cứng rắn đối với Nhật Bản. Song từ tháng 10/1948, lập trường của người Mỹ đối với Nhật Bản đã có sự thay đổi căn bản. Nhật Bản đã được Mỹ nâng đỡ để trở thành đồng minh đắc lực trong chính sách xâm lược của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương. Kể từ tháng 10/1948 trở đi, công cuộc khôi phục kinh tế của Nhật Bản diễn ra ngày càng thuận lợi. Đặc biệt, với đường lối kinh tế học thị trường của Joseph Dodge (chủ tịch ngân hàng Detroit của Mỹ được cử sang Nhật Bản với tư cách Bộ trưởng), việc ký Hiệp ước an ninh Nhật-Mỹ (1951), Hiệp ước thương mại và đầu tư (1953)… kế hoạch 5 năm khôi phục kinh tế (1948-1952) của Nhật Bản đã thành công. Đến năm 1951, các chỉ tiêu kinh tế cơ bản của Nhật Bản như tổng sản phẩm quốc dân thực tế, sản xuất công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu thực tế đã bằng và vượt mức trước chiến tranh.
- Giai đoạn phát triển kinh tế “thần kỳ” của Nhật Bản (1951-1973).
a.) Thành tựu:
Trong khoảng 20 năm sau chiến tranh (1951-1973), nền kinh tế Nhật Bản phát triển với nhịp độ rất nhanh chóng. Nhiều nhà kinh tế thế giới coi đây là giai đoạn phát triển “thần kỳ” của nền kinh tế Nhật Bản. Từ một nước đứng dậy từ trong đóng tro tàn của chiến tranh, Nhật Bản đã trở thành cường quốc kinh tế thứ hai trong thế giới tư bản sau Mỹ. Từ 1952-1973, tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc dân thực tế của Nhật Bản thường ở mức cao nhất trong các nước tư bản. So với năm 1950, năm 1973 giá trị tổng sản phẩm trong nước tăng hơn 20 lần, từ 20 tỷ USD lên 402 tỷ USD, vượt Anh, Pháp, CHLB Đức.
Tốc độ phát triển công nghiệp hằng năm thời kỳ 1950-1960 là 15,9%; từ 1960-1969 là 13,5%. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng từ 4,1 tỷ USD năm 1950 lên 56,4 tỷ USD năm 1969. Đúng một trăm năm sau cải cách Minh Trị (1868-1968), Nhật Bản đã dẫn đầu các nước tư bản về tàu biển, xe máy, máy khâu, máy ảnh, ti vi; đứng thứ hai về sản lượng thép, ô tô, xi măng, sản phẩm hóa chất, hàng dệt…
Một số ngành công nghiệp then chốt đã tăng lên với nhịp độ rất nhanh. Mặc dù Nhật Bản hầu như không có mỏ dầu nhưng đã đứng đầu các nước tư bản về nhập và chế biến dầu thô, riêng năm 1971 đã nhập tới 186 triệu tấn dầu thô; công nghiệp sản xuất thép năm 1950 là 4,8 triệu tấn; 1973 là 117 triệu tấn. Năm 1960, công nghiệp ô tô Nhật Bản còn đứng hàng thứ sáu trong thế giới tư bản, đến năm 1967 vươn lên hàng thứ hai sau Mỹ. Năm 1968, Nhật Bản sản xuất được 2 triệu ô tô. Công nghiệp đóng tàu đến những năm 70 chiếm trên 50% tổng số tàu biển và có sáu trong mười nhà máy đóng tàu lớn nhất thế giới tư bản. Sự phát triển nhanh một số ngành kinh tế đã làm thay đổi nhanh cơ cấu ngành sản xuất của Nhật Bản. Tỷ trọng các ngành nông, lâm, ngư nghiệp giảm đi đáng kể, các ngành công nghiệp, dịch vụ tăng nhanh.
Ngành nông nghiệp tuy tỷ trọng trong tổng sản phẩm quốc dân giảm, nhưng sản lượng và năng suất lao động lại tăng nhanh. Lao động nông nghiệp giảm từ 14,5 triệu năm 1960 xuống còn 8,9 triệu năm 1969. Tổng giá trị sản lượng nông, lâm, ngư nghiệp năm 1969 là 9 tỷ USD.
Giao thông vận tải, nhất là phương tiện vận chuyển tăng nhanh. Đến đầu thập kỷ 70, Nhật Bản đứng đầu các nước tư bản về vận tải đường biển.
Ngoại thương được coi là nhịp thở của nền kinh tế Nhật Bản. Từ năm 1950 đến năm 1971 kim ngạch ngoại thương tăng 25 lần từ 1,7 tỷ USD lên 43,6 tỷ USD. Trong đó, xuất khẩu tăng 30 lần, nhập khẩu tăng 21 lần.
b.) Nguyên nhân:
Sự phát triển thần kỳ của nền kinh tế Nhật Bản trong giai đoạn 1952-1973 bắt nguồn từ một số nguyên nhân cơ bản sau:
– Thứ nhất, phát huy vai trò nhân tố con người
Trước hết, phải nói rằng chế độ giáo dục ở Nhật Bản khá phát triển và hoàn thiện. Kế thừa nền giáo dục của thời kỳ trước, từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã phổ cập giáo dục hệ 9 năm. Trên cơ sở trình độ văn hóa chung khá cao đó, người Nhật Bản rất chú trọng đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, có đủ khả năng nắm bắt và sử dụng những kỹ thuật, công nghệ mới. Công nhân được đào tạo không chỉ trong các trường dạy nghề mà có thể đào tạo ngay tại các xí nghiệp.
Đội ngũ cán bộ khoa học-kỹ thuật của Nhật Bản khá đông đảo, có chất lượng cao đã góp phần đắc lực vào bước phát triển nhảy vọt về kỹ thuật và công nghệ của đất nước. Giới quản lý và kinh doanh của Nhật Bản được đánh giá là những người sắc xảo, nhạy bén trong việc nắm bắt thị trường, đổi mới phương pháp kinh doanh, đem lại thắng lợi cho các công ty Nhật Bản trên thị trường quốc tế.
Từ lâu, người Nhật được giáo dục theo những luân lý của đạo Khổng. Trong thời kỳ hiện đại, những đức tính cần kiệm, kiên trì, lòng trung thành, tính phục tùng… vẫn được đề cao. Những tinh hoa văn hóa của quá khứ được tôn trọng và kế thừa là nền tảng để người Nhật nắm bắt những tri thức mới của thời đại. Do đó, giới quản lý đã đặc biệt thành công trong việc củng cố kỷ luật lao động, lợi dụng và khai thác sự tận tụy và trung thành của người lao động. Các công ty của Nhật Bản thường được bao trùm bởi một bầu không khí thấm đậm tình “gia tộc”, “gia đình”. Không ít nhà nghiên cứu phương Tây cho rằng sự thành công trong phát triển kinh tế của Nhật Bản là kết quả của sự kết hợp khéo léo giữa “công nghệ phương Tây” và “tính cách Nhật Bản”.
– Thứ hai, duy trì mức tích lũy cao thường xuyên, sử dung vốn đầu tư có hiệu quả cao
+Tích lũy vốn:
Nhật Bản thời kỳ này được coi là một nước có tỷ lệ tích lũy vốn cao nhất trong các nước tư bản phát triển. Tỷ lệ tích lũy vốn thường xuyên của thời kỳ 1952-1973 vào khoảng từ 30 đến 35% thu nhập quốc dân, gấp hơn hai lần so với Mỹ, Anh. Trong đó, tỷ lệ đầu tư vào tư bản cố định trong tổng sản phẩm xã hội của Nhật Bản cao hơn tất cả. Năm 1966, tổng số vốn đầu tư vào tư bản cố định của Nhật Bản là 30,6 tỷ USD. Đây là một trong những nhân tố quyết định nhất, bảo đảm cho nền kinh tế Nhật Bản phát triển với tốc độ cao.
Những giải pháp duy trì mức tích lũy cao của Nhật Bản là:
– Tận dụng triệt để nguồn lao động trong nước, áp dụng chế độ tiền lương thấp.
Tiền lương công nhân Nhật Bản những năm 50, 60 rất thấp so với các nước tư bản phát triển. Trong các xí nghiệp lớn của ngành công nghiệp chế biến ở Nhật Bản, tiền lương công nhân chỉ bằng 1/3 tiền lương của công nhân Anh và 1/7 tiền lương công nhân Mỹ. Tư bản độc quyền Nhật Bản một mặt lợi dụng mức sống thấp của nhân dân và tình trạng thất nghiệp sau chiến tranh, mặt khác tuyên truyền cho “lối sống cổ truyền”. Bằng phương pháp quản lý tinh vi, chế độ thuê mướn suốt đời kết hợp với các hình thức khác, các ông chủ đã buộc công nhân phải tận tâm, trung thành với xí nghiệp, vì quyền lợi của xí nghiệp. Chế độ tiền lương thấp là nhân tố quan trọng nhất để đạt mức tích lũy vốn cao và hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường nước ngoài.
– Để tạo vốn cho phát triển kinh tế, Nhật Bản đã chú ý khai thác và sử dụng tốt nguồn tiết kiệm cá nhân. Từ 1961-1967, tỷ lệ gửi tiết kiệm trong thu nhập quốc dân là 18,6% cao gấp hơn hai lần của Mỹ (6,2%) và Anh (7,7%). Năm 1968-1969, tổng số tiền tiết kiệm lên tới 157,5 tỷ USD. Tính trung bình mỗi người dân Nhật có số tiền tiết kiệm là 1.550 USD.
Ngoài ra, mức tích lũy cao ở Nhật Bản còn là kết quả của việc giảm chi phí quân sự xuống mức dưới 1% tổng sản phẩm quốc dân (ở Mỹ là 9-10%). Do nhu cầu của phát triển kinh tế thời kỳ này Chính phủ Nhật Bản đã hạn chế các khoản chi tiêu cho phúc lợi xã hội, y tế, nhà ở… Bộ máy hành chính cũng được chú ý giảm tới mức tối thiểu, số người phục vụ trong các cơ quan Nhà nước và quân đội chỉ khoảng 1,3 triệu. Trong khi đó ở Pháp, dân số chỉ bằng một nửa Nhật Bản nhưng con số này là 3 triệu người.
Có thể khẳng định rằng người Nhật Bản đã rất thành công trong việc huy động nguồn vốn nội bộ cho phát triển kinh tế thời kỳ sau chiến tranh.
Tuy vậy, nguồn vốn từ bên ngoài cũng đóng vai trò khá quan trọng đối với nền kinh tế Nhật, nhất là nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) chủ yếu được dành cho việc cải tạo, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng và phát triển công nghiệp nặng. Trong thời kỳ từ 1944 đến 1955, số vốn của bên ngoài vào Nhật Bản là 230 triệu USD và đã tăng lên rất nhanh trong thời kỳ 1956-1973 với 24 tỷ USD, trong đó vay trực tiếp và tiếp nhận đầu tư cổ phiếu nước ngoài chiếm 89%. Trong các nguồn tín dụng của nước ngoài, tín dụng Mỹ giữ vai trò quan trọng thông qua các tổ chức như Ngân hàng Xuất-Nhập khẩu Mỹ, Ngân hàng Phát triển Quốc tế, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)…
Có thể nói rằng trong thời kỳ sau chiến tranh, Nhật Bản không phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn bên ngoài. Chính phủ giao cho cho Bộ Tài chính quản lý và kiểm soát rất chặt chẽ việc sử dụng các nguồn vốn đó. Đầu tư trực tiếp chỉ được khuyến khích cho mục tiêu tìm kiếm công nghệ và bí quyết sản xuất.
+ Sử dụng vốn
Nhật Bản được coi là một nước sử dụng vốn một cách táo bạo và có hiệu quả.
Ở Nhật Bản nhiều ngân hàng thương mại chấp nhận cho vay tới 95% tổng số vốn. Biện pháp mạo hiểm này đã tạo điều kiện tăng nhanh số vốn chuyển vào sản xuất kinh doanh.
Trong sử dụng vốn, Nhật Bản trước hết tập trung vào những ngành sản xuất lớn, hiện đại và có hiệu quả cao. Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất diễn ra rất nhanh chóng, đạt trình độ và quy mô quốc tế. Năm 1969, ở Nhật Bản có hơn 10 công ty độc quyền với doanh số trên 1 tỷ USD, một số công ty như Mitsubisi, Mitsui… có doanh số khoảng 10 tỷ USD. Do đó, Nhật Bản đã có thêm những điều kiện thuận lợi để nhanh chóng áp dụng khoa học-kỹ thuật hiện đại, hợp lý hóa quy trình sản xuất, nâng cao hiệu quả của tư bản đầu tư.
Về đầu tư trong nước, phần lớn số vốn được tập trung vào các ngành then chốt như luyện kim, đóng tàu, chế tạo máy, hóa chất, điện tử và vi điện tử… Vốn đầu tư cũng được tập trung vào đổi mới thiết bị sản xuất. Sau hơn 20 năm, Nhật Bản hầu như đã đổi mới toàn bộ tư bản cố định. Trong một số ngành như chế tạo máy, luyện kim, đóng tàu biển, điện tử… trình độ trang bị kỹ thuật vào loại cao nhất thế giới.
Ngay sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, một số công ty của Nhật Bản đã chú ý tới việc đầu tư ra nước ngoài. Tuy nhiên, trong thập kỷ 50 và nửa đầu thập kỷ 60, hoạt động đầu tư nước ngoài còn chậm vì thiếu ngoại tệ và ít có nguồn tư bản dài hạn nước ngoài. Ở giai đoạn đầu này, Nhật Bản chủ yếu đầu tư ở khu vực Đông Nam Á với những kỹ nghệ sử dụng nhiều lao động, thích hợp với trình độ của các nước này. Từ nửa cuối thập kỷ 60, Nhật Bản đã chú ý nhiều hơn vào đầu tư khai thác tài nguyên, đồng thời đa dạng hóa khu vực đầu tư. Tổng số vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh qua các năm. Nếu vào thời kỳ 1955-1957, mức bình quân là 50 triệu USD thì đến thời kỳ 1963-1965 lên 130 triệu USD và năm 1970 lên tới 900 triệu USD.
Cho đến năm 1973, tổng số vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản đạt khoảng 19,3 tỷ USD. Mặt khác, cơ cấu đầu tư theo khu vực cũng thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng đầu tư vào Mỹ và châu Âu, giảm tỷ trọng đầu tư vào Trung và Nam Mỹ (Mỹ: 26,4%, châu Âu: 26,1%, châu Á: 23%, Trung Nam Mỹ: 13%).
Có thể nói đầu tư nước ngoài là một yếu tố góp phần vào sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế trong nước, tăng vị thế và sức cạnh tranh của các công ty của Nhật Bản trong nền kinh tế thế giới.
Nhật Bản đã nhanh chóng xây dựng nên các ngành kinh tế mũi nhọn dựa trên kỹ thuật công nghệ hiện đại. Tới đầu thập kỷ 70, sức cạnh tranh và vị thế của các công ty của Nhật Bản đã tăng lên nhanh chóng. Nhật Bản đã đuổi kịp trình độ phát triển kinh tế của các nước tư bản phát triển phương Tây.
– Thứ ba, tiếp cận và ứng dụng nhanh chóng những tiến bộ khoa học-kỹ thuật
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Nhật Bản là một nước lạc hậu so với các nước tư bản khác. Nhưng cũng ngay trong những năm tháng khó khăn đó, Nhật Bản đã giành một số vốn lớn cho việc nghiên cứu, phát triển khoa học-kỹ thuật.
Chi phí nghiên cứu phát triển của Nhật Bản năm 1955 còn ở mức 40,1 tỷ yên (0,84% thu nhập quốc dân) đã tăng lên nhanh chóng đạt gần 1.200 tỷ yên (1,96% thu nhập quốc dân) vào năm 1970. Năm 1955, ở Nhật Bản chỉ có 1.445 phòng thí nghiệm tham gia nghiên cứu khoa học-kỹ thuật thì năm 1970 đã tăng lên đến 12.594, gấp 9 lần trong 15 năm. Ngoái ra, các công ty, các trường đại học cũng tham gia tích cực vào việc nghiên cứu và đào tạo cán bộ khoa học-kỹ thuật. Nhật Bản đã phát huy được sức mạnh của cả khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân trong lĩnh vực nghiên cứu và đào tạo khoa học-kỹ thuật. Năm 1970, ở Nhật Bản có tới 419.000 các nhà khoa học và các chuyên gia khoa học-kỹ thuật. Song thành công hơn cả của người Nhật Bản vẫn là lĩnh vực khoa học ứng dụng.
Nhật Bản đã chú trọng ứng dụng những thành tựu khoa học-kỹ thuật mới nhất của Âu-Mỹ bằng cách nhập khẩu công nghệ, kỷ thuật, mua các phát minh sáng chế. Từ năm 1950 đến năm 1971, tổng số vụ nhập khẩu kỹ thuật của Nhật là 15.289 vụ, gần 70% là của Mỹ, hơn 10% của Tây Đức. Nhờ đó đã cải tạo căn bản tài sản cố định và góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội. Tốc độ tăng năng suất lao động trung bình hằng năm của Nhật Bản thời kỳ 1955-1965 là 9,4%. Việc mua các phát minh cho phép Nhật Bản tiếp cận với thành tựu mới nhất của khoa học-kỹ thuật. Tính đến năm 1968, tổng giá trị những phát minh mà Nhật Bản mua của nước ngoài vào khoảng 6 tỷ USD. Để có những phát minh đó, các nước khác phải tốn tới khoảng 120-130 tỷ USD, như vậy Nhật Bản đã tiết kiệm được khoảng 100 tỷ USD, bằng 1/3 tổng tài sản cố định tích lũy trong thời gian này.
Bằng cách đi khôn ngoan, chỉ hơn 20 năm sau chiến tranh, nền khoa học-kỹ thuật của Nhật Bản có bước phát triển nhảy vọt. Đến đầu những năm 1970, Nhật Bản đã đạt trình độ cao về tự động hóa, trình độ sử dụng máy vi tính trong một số ngành sản xuất… Đó là những nhân tố tác động rất mạnh đến tốc độ phát triển kinh tế của Nhật Bản sau chiến tranh.
– ST –
Trả lời