Trong thời đại ngày nay, kỹ thuật xây dựng đã phát triển vượt bậc và những ngôi nhà chọc trời đủ sức chứa hàng trăm nghìn người không còn là điều hiếm hoi trên thế giới.
Đặc biệt tại Nhật Bản, đất nước có nền khoa học kỹ thuật tiên tiến hàng đầu thế giới, thủ đô Tokyo từ lâu đã được mệnh danh là một trong những “siêu đô thị” của thế giới với các trung tâm thương mại, khách sạn, tòa nhà văn phòng và đặc biệt là khoảng 9.300 khu chung cư cao tầng san sát.
Khi mật độ các tòa nhà cao tầng trở nên dày đặc, an toàn phòng chống cháy nổ tại các tòa nhà cao tầng trở thành vấn đề quan trọng hàng đầu.
Theo Cục Phòng cháy chữa cháy và ứng phó thảm họa Nhật Bản (FDMA), năm 2016, trên toàn Nhật Bản xảy ra 36.831 vụ hỏa hoạn, làm 1.452 người thiệt mạng và 5.899 người bị thương. Riêng tại thủ đô Tokyo xảy ra 153 vụ làm 2 người thiệt mạng.
Xác định không thể loại trừ hoàn toàn nguy cơ hỏa hoạn, chính quyền thành phố Tokyo với trên 30 triệu dân chú trọng hoạt động phòng cháy và chữa cháy, coi đó là vấn đề ưu tiên hàng đầu khi xây dựng các tòa nhà cao tầng.
Đó là nền tảng của Luật phòng cháy chữa cháy và hàng loạt các sắc lệnh liên quan đến phòng cháy chữa cháy tại Nhật Bản.
Đề phòng hỏa hoạn – Điểm khởi đầu của an toàn cháy nổ
Luật Phòng cháy chữa cháy ra đời bao trùm một loạt vấn đề, từ các biện pháp an toàn phòng cháy như quy định vật liệu xây dựng, diện tích các công trình xây dựng, đến việc bổ nhiệm nhân sự chịu trách nhiệm phòng cháy, các quy định hoạt động của lực lượng phòng cháy chữa cháy, trang thiết bị, cảnh báo…
Theo Luật phòng cháy chữa cháy của Nhật Bản, các khu chung cư phải có hệ thống đường ống nước chuyên dụng chỉ dành cho hoạt động cứu hỏa, bảng cung cấp các chỉ số hiện trạng, hệ thống tự động báo động và chuyển thông tin cho trung tâm chỉ huy.
Đặc biệt, các chung cư cao trên 31m (11 tầng trở lên) phải đáp ứng được các quy định về phòng cháy chữa cháy.
Một trong các quy định đó là lắp đặt hệ thống vòi phun mưa tại các căn hộ từ tầng 11 trở lên để hỗ trợ dập lửa vì thang cứu hỏa chỉ vươn đến độ cao tối đa là 30m (tương đương tầng 10).
Chung cư phải đáp ứng các tiêu chuẩn như có một sảnh thang máy biệt lập để trong trường hợp hỏa hoạn, toàn bộ các thang máy sẽ tự động chạy xuống tầng 1 và ngừng hoạt động, có hơn hai lối thoát khẩn cấp, sử dụng vật liệu không bắt lửa trong thiết kế nội thất từ tầng 11 trở lên, đặt bình cứu hỏa tại hành lang chung từ tầng 11 trở lên theo mật độ quy định…
Chung cư phải có tường chống cháy, cửa chống cháy tại mỗi khu vực rộng từ 100 đến 500 mét vuông. Các chung cư hoặc công trình xây dựng vượt quá quy định về diện tích và chiều cao bắt buộc phải bố trí một chỉ huy ứng phó thảm họa của tòa nhà đó, lập đội chữa cháy riêng của tòa nhà.
Các công trình xây dựng trong những năm trở lại đây còn cần phải đáp ứng các quy định về lắp đặt các dụng cụ hỗ trợ thoát hiểm. Một trong những quy định đó đó là đảm bảo hai lối thoát khẩn cấp gồm cửa trước và ban công tại mỗi căn hộ.
Tại khu vực ban công, vách ngăn cách ban công các căn hộ có phần dưới được làm từ vật liệu ván ép để người dân có thể dễ dàng đạp vỡ phần dưới ban công và chạy sang căn hộ liền kề.
Dụng cụ hỗ trợ thoát hiểm thứ hai tại ban công là thang thoát hiểm thông xuống tầng dưới. Khu vực sàn ban công của mỗi căn hộ có khoảng trống được đậy nắp có móc khóa.
Khi xảy ra tình huống khẩn cấp, cư dân sẽ nhấc nắp ban công, mở thang thoát hiểm gắn ở nắp ban công và sử dụng thang này để di chuyển xuống ban công của căn hộ ngay bên dưới.
Cư dân không được phép để các vật dụng làm ảnh hưởng đến các thiết bị hỗ trợ thoát hiểm như để đồ dùng chắn các vách ngăn ban công, không được gắn sào phơi quần áo chắn ngang cửa có thang thoát hiểm thông với tầng trên.
Đối với hoạt động phòng cháy tại mỗi hộ gia đình, nhà chức trách khuyến khích người dân nâng cao ý thức phòng cháy thông qua việc tự trang bị bình cứu hỏa gia đình trong nhà, tuân thủ các quy định về an toàn cháy nổ, khu vực cấm lửa, cấm hút thuốc…
Một điều quan trọng của hoạt động phòng cháy, chữa cháy và ứng phó thảm họa là các buổi diễn tập và các buổi hướng dẫn tình huống thảm họa, bao gồm cả hỏa hoạn được thực hiện theo định kỳ hàng năm tại các trường học từ độ tuổi nhà trẻ và các doanh nghiệp nhằm nâng cao khả năng tự xử lý, thoát hiểm trong tình huống thảm họa.
Sự chuyên nghiệp và ý thức cộng đồng
Cùng với việc chú trọng thực hiện các biện pháp đề phòng, Nhật Bản đặc biệt quan tâm bảo đảm hoạt động chữa cháy và cứu hộ hoạt động hiệu quả để giảm thiểu mức độ thiệt hại khi xảy ra hỏa hoạn.
Cơ cấu của hệ thống cơ quan phòng cháy chữa cháy Nhật Bản bao gồm sở phòng cháy chữa cháy, trạm phòng cháy chữa cháy và các đội phòng cháy chữa cháy tình nguyện. Các sở và trạm là nơi tập hợp các đội cứu hỏa và cứu hộ chuyên nghiệp.
Ông Senba Akira, Phòng Cứu hộ khẩn cấp của FDMA, cho biết lực lượng phòng cháy chữa cháy và đối phó thảm họa của Nhật Bản hiện tại có tổng cộng khoảng 164.000 người với 732 trạm cứu hỏa trên toàn quốc.
Các trạm cứu hỏa cùng các thiết bị như vòi rồng, xe cứu hỏa lớn có trang bị thang cứu hộ cùng nhiều thiết bị khác được phân bổ căn cứ theo số dân, quy mô tòa nhà và thực trạng địa hình.
Cơ cấu của một đội cứu hỏa Nhật Bản gồm có hai nhóm. Nhóm chỉ huy (tiếng Nhật gọi là nhóm côm-măng-đô), là đội có đồng phục màu vàng, có nhiệm vụ phân tích tình hình đưa ra các chỉ thị kịp thời để ứng phó với tình hình tại hiện trường, Đội trưởng đội cứu hỏa cũng là chỉ huy của nhóm com-măng-đô.
Nhóm thứ hai là nhóm tác chiến (tiếng Nhật gọi là nhóm la-đa), đồng phục màu cam. Đây là nhóm trực tiếp thực hiện các mệnh lệnh do nhóm chỉ huy đưa ra.
Lực lượng cứu hỏa chuyên nghiệp sẽ sử dụng thang cứu hộ trên xe cứu hỏa để tiếp cận khu vực cao tầng có nạn nhân đang mắc kẹt. Tại các tầng thấp, lính cứu hỏa sẽ sử dụng vòi rồng có áp lực nước lớn để dập lửa, mở đường đi vào trong khu vực bị hỏa hoạn.
Biện pháp thứ ba là sử dụng máy bay trực thăng, thả thang cứu hộ và đội cứu hộ xuống, phối hợp với nhóm tác chiến trên bộ để tiến hành hoạt động cứu hộ đồng bộ.
Lính cứu hỏa Nhật Bản nổi tiếng thế giới về hoạt động hiệu quả với thao tác nhanh, gọn, chính xác.
Đây là kết quả của các chương trình diễn tập định kỳ tại các đơn vị đồng thời là ý thức cao của mỗi lính cứu hỏa đối với nhiệm vụ của mình.
Để thực hiện các nhiệm vụ của hoạt động cứu hỏa và cứu hộ (gồm phản ứng nhanh, leo trèo, đu dây, hỗ trợ nạn nhân… ) liên tục trong một khoảng thời gian dài với bộ trang phục phòng cháy chữa cháy trên người nặng tổng cộng 20kg (gồm giày, áo quần, mũ bảo hiểm…), đòi hỏi lính cứu hỏa phải có thể lực, sức bền tốt.
Chính vì vậy, ngoài việc tham gia các buổi diễn tập định kỳ của đơn vị, lính cứu hỏa Nhật Bản đều có ý thức rất cao đối với việc tự luyện tập thể lực hàng ngày.
Cùng với lực lượng phòng cháy chữa cháy chuyên nghiệp, Nhật Bản rất chú trọng việc phát huy vai trò của người dân địa phương.
Đội phòng cháy chữa cháy tình nguyện trực thuộc sự quản lý của chính quyền địa phương, thành viên là những người dân địa phương tình nguyện, có tinh thần muốn cống hiến cho quê hương.
Những người này có công việc riêng song luôn sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ cứu hộ bất kể ngày đêm.
Ông Endo Takashi, chuyên gia Ban hợp tác quốc tế của FDMA, cho biết FDMA đã nhiều lần đón lực lượng cứu hỏa Việt Nam sang học tập, tìm hiểu kinh nghiệm tại Nhật Bản. Ông đánh giá cao tinh thần và kỹ năng cho lực lượng phòng cháy chữa cháy Việt Nam.
Tuy nhiên, ông cho rằng lính cứu hỏa Việt Nam cần nâng cao năng lực quản lý an toàn và bảo vệ bản thân.
Theo ông Endo, nguyên tắc của lực lượng phòng cháy chữa cháy Nhật Bản là xác định chính xác tình hình để có phản ứng phù hợp mới có thể thực hiện tốt hoạt động cứu hộ.
Ông cũng cho rằng việc đảm bảo nguồn ngân sách cố định cho hoạt động phòng cháy chữa cháy cũng là một yếu tố đóng vai trò tối quan trọng.
Các chế tài, giải pháp phù hợp và lực lượng phòng cháy chữa cháy chuyên nghiệp, hiệu quả là điều mà Nhật Bản đang thực hiện để hạn chế đến mức thấp nhất nguy cơ xảy ra hỏa hoạn và thiệt hại do hỏa hoạn.
Tuy nhiên, không chỉ là nhiệm vụ của nhà nước, của lực lượng phòng cháy chữa cháy, Nhật Bản rất chú trọng đến việc nâng cao ý thức của toàn xã hội.
Mỗi doanh nghiệp, mỗi cư dân đều cần coi trọng vấn đề an toàn cháy nổ, đây chính là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng môi trường sống an toàn cho chính mình và cho cộng đồng.
– ST –
Trả lời